Nhu cầu nhận thức thế giới là một nhu cầu khách quan của con người. Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và biết lý giải về tự nhiên, xã hội với những kiến thức cụ thể,riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, dần dần những triết lý - tức là những quan niệm chung về thế giới và nhân sinh cũng xuất hiện. Khi nhận thức của con người phát triển đến trình độ cao, nghĩa là khi con người có khả năng tư duy trừu tượng, khái quát các tri thức riêng lẻ thành hệ thống các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới thì lúc đó triết học xuất hiện với tư cách là một khoa học. Trong lịch sử, triết học ra đời từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
Triết học ra đời khi kinh tế - xã hội đã có sự phân công lao động và đã xuất hiện giai cấp. Khi con người chế tạo được công cụ bằng đồng, bằng sắt thì nền sản xuất xã hội đạt năng suất cao hơn. Dần dần, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nền kinh tế tương đối phát triển với trình độ chuyên môn hoá trong lao động đã tạo điều kiện cho những tiến bộ về văn hoá, khoa học. Đồng thời trong lịch sử, nền kinh tế dựa trên công cụ lao động bằng sắt cũng dẫn tới sự phân hoá giai cấp, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp với vai trò và lợi ích khác nhau đã phản ánh về bản chất thế giới và luận về vai trò của con người trong thế giới một cách khác nhau dẫn đến sự ra đời của nhiều trường phái triết học. Từ nguồn gốc trên cho thấy triết học xuất hiện từ bản thân lịch sử của con người, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Như vậy, triết học là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh các quan hệ kinh tế - xã hội và biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế - xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét